SINH LÝ TIM MẠCH
Hệ thống tuần hoàn
trong cơ thể được chia làm tuần hoàn máu và tuần hoàn bạch huyết. Tuần hoàn máu
là sự lưu thông của máu khắp cơ thể trong một hệ thống kín, bao gồm tim và mạch
máu, đảm nhiệm vai trò quan trọng trong cơ thể, có tính chất sinh mạng.
I.
KHÁI
NIỆM VÀ CHỨC NĂNG VÒNG TUẦN HOÀN
1.
Khái
niệm:
Người ta có thể chia ra
làm hai vòng tuần hoàn, đó là vòng đại tuần hoàn ( tuần hoàn hệ thống) và tiểu
tuần hoàn (tuần hoàn phổi):
-
Vòng đại
tuần hoàn là vòng tuần hoàn chung, có nhiệm vụ cung cấp máu cho toàn cơ
thể, vai trò chính là dinh dưỡng. Máu từ tâm thất trái đổ vào động mạch chủ rồi
la tỏa theo các động mạch vừa và các động mạch nhỏ rồi đến mạng mao mạch thuc
hiện chức phận. Sau đó máu đã bị khử oxy theo hệ tĩnh mạch đổ về tĩnh mạch chủ
trên và tĩnh mạch chủ dưới và cuối cùng ở nhĩ phải.
-
Vòng tiểu tuần hoàn là vòng tuần hoàn đi
qua phổi, thực hiện nhiệm vụ đổi mới máu, đào thải CO2 và thu nhận O2.
Vòng tuần hoàn này bắt đầu từ thất phải, máu theo động mạch phổi đến hệ thống
mao mạch phế nang trao đổi khí rồi theo bốn tĩnh mạch phổi đổ về nhĩ trái.
Trên lâm sàng, người ta
chia tim thành tim trái và tim phải, nên tuần hoàn cũng chia thành tuần hoàn
trái và tuần hoàn phải.
-
Tuần hoàn trái là tuần hoàn máu đỏ tươi,
giàu oxy và dinh dưỡng. Bắt đầu từ mạng mao mạch phế nang, máu theo tĩnh mạch
phổi đổ về nhĩ trái rồi xuống thất trái,từ đây máu được bơm tới cơ quan. Với
quan niệm này thì máu tĩnh mạch phổi cũng là máu động mạch.
-
Tuần hoàn phải là tuần hoàn máu đỏ sẫm,
chứa nhiều CO2 và sản phẩm chuyển hóa từ tế bào – còn gọi là máu
tĩnh mạch. Xuất phát từ mạng mao mạch cơ quan, máu theo các tĩnh mạch đổ về
tĩnh mạch chủ trên và dưới, đổ vào nhĩ phải rồi xuống thất phải. Thất phải bơm
máu qua động mạch phổi đến mạng mao mạch quanh phế nang phổi, thực hiện trao đổi
khí. Quan niệm này thì máu động mạch phổi cũng là máu tĩnh mạch.
Thời gian tuần hoàn là
thời gian máu (tính cho một hồng cầu) rời tâm thất đi qua vòng đại tuần hoàn và
tiểu tuần hoàn rồi trở về tim. Việc đánh giá thời gian tuần hoàn có ý nghĩa nhất
định trong nghiêng cứu sinh lý lao động, một số bệnh lý về tim.
Lưu lượng tuần hoàn được
đánh giá bởi hai đại lượng: thể tích tâm thu và lưu lượng phút.
Ở người trưởng thành,
thể tích mỗi nhát bóp tâm thu khoảng 60 – 70ml.
Lưu lượng phút được
tính bằng: Qc= Qs.f
Trong đó: Qc: lượng máu tim bóp đi trong một phút
Qs: lượng máu tim bóp đi trong một nhịp
f: tần số tim. Tần số này thay đổi theo tuổi, ở trẻ
sơ sinh khoảng 120-160 l/p, trẻ 1-5t khoảng 100-120 l/p, người trưởng thành khoảng
70-80 l/p.
2.
Chức
năng:
Hệ tuần hoàn đảm nhiệm
nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể :
-
Cung cấp oxy và dinh dưỡng cho các tế
bào, đồng thời mang các chất cần đào thải đến các cơ quan chuyên trách đào thải
ra ngoài.
-
Đảm bảo điều tiết theo cơ chế thể dịch
và thần kinh thể dịch: các hormoon và các chất chuyển hóa được vận chuyển trong
máu đến các cơ quan khác nhau, nhờ đó mà các cơ quan hoạt động nhịp nhàng, thống
nhất, đảm bảo cho sự thích nghi trong một cơ thể toàn vẹn.
-
Bảo vệ cơ thể: sự di chuyển của bạch cầu,
kháng thể đi khắp nơi trong cơ thể có tác dụng chống lại các tac nhân bất lợi
trong xâm nhập vào cơ thể. Thân nhiệt cơ thể luôn ổn định là nhờ tac dụng của
dòng máu mang nhiệt phân phối đều,…
II.
SINH
LÝ TIM
1.
Cấu
trúc cơ tim
1.1 Tim
Tim
là một khối cơ rỗng, trọng lượng khoảng 270g ở nam, 260g ở nữ, được chia làm 4
buồng tim với 2 nhĩ và 2 thất. Nhĩ phải và nhĩ trái thành mỏng nhận máu tĩnh mạch
rồi đưa xuống thất; thất phải và thất trái thành dày, tống máu vào động mạch với
áp lực cao. Hai tâm nhĩ ngăn cách nhau bởi một thành mỏng ở trong gọi là vách
lien nhĩ, hai tâm thất ngăn cách nhau bởi vách lien thất.
Độ
dày của các thành buồng tim thay đổi tùy theo chức năng của nó, mỏng ở hai tam
nhĩ và dày ở hai tâm thất, trong đó thất trái có độ dày gấp 2 đến 4 lân thất phải
do phải tống máu với áp lực cao để thắng sức cản lớn của hệ thống tuần hoàn.
1.2
Van tim
(
phần này xem lại giải phẫu tim)
1.3 Cơ tim
Cơ tim là một khối liên bào, gồm 3 loại
tế bào chính: tế bào phát nhịp, tế bào dẫn truyền và tế bào co rút.
1.3.1
Tế bào phát nhịp và tế bào dẫn truyền
Các tế bào này chiếm số lượng ít, có chức
năng đặc biệt nên còn gọi là mô biệt hóa của tim. Các tế bào có màu xám (pale)
nên còn được gọi là tế bào P. Mô này không có chức năng co bóp mà chỉ có nhiệm
vụ sản sinh và dẫn truyền xung động đến từng sợi co bóp của tim.
Tế bào phát nhịp có đường kính khoảng 5
– 10 µm, khu trú chủ yếu ở nút xoang, bộ nối nhĩ thất, một ít ở mạng Purkinje.
Tế bào dẫn truyền là những tế bào mảnh
và dài, cấu trúc bên trong mang tính chất trung gian giữa tế bào phát và tế bào
co bóp ( đường kính ngang 10-30µm, dài 20-50µm).
Các tế bào này không xen lẫn với các sợi
cơ tim co bóp mà chụm lại thành từng đám sau đây:
-
Nút xoang (sinus node): do Keith và
Flack phát hiện năm 1907, có hình bầu dục, kích thước 15x3x2 mm, nằm ở phần
trên của nhĩ phải, trước và bên gốc tĩnh mạch chủ trên. Những tế bào phát xung
động nắm trung tâm, xung quanh là thân các tế bào dẫn truyền. Nút xoang có tần
số phát xung động cao nhất, 80 – 100 lần/phút.
-
Đường liên nút(internodal track): dẫn
truyền xung động từ nút xoang qua tâm nhĩ tới nút nhĩ thất. Các đường dẫn truyền
được mô tả như hình bên dưới. Tuy nhiên một số tac giả không công nhận 3 đường
dẫn truyền này mà vẫn cho rằng xung động xoang truyền qua các sợi cơ nhĩ đến
nút nhĩ thất.
-
Nút nhĩ thất (A – V node): hình bầu dục,
mặt phải lõm, mặt trái lồi, kích thước 6x3x1 mm, nằm mặt phải của phần dưới
vách gian nhĩ, ngay trên valve 3 lá, gần xoang vành. Nút nhĩ thất gồm nhiều tế
bào biệt hóa đan với nhau làm xung động qua đây bị chậm hẳn và dễ bị block.
Càng xuống dưới các sợi biệt hóa càng dài dần và trở nên song song cho đến bó
His. Trước kia người ta cho rằng nút nhĩ thất có nhiều tế bào tự động, nhưng
ngày ta thấy rằng các tế bào không có trong nút này mà chỉ có ranh giới giữa
nút này và bó His.
-
Bó His: rộng 2-4 mm, nối tiếp nút nhĩ thất,
đi trong vách lien thất, ngay dưới mặt phải của vách. Bó His gồm những tế bào
biệt hóa, vừa có những tế bào dẫn truyền xung động nhanh, vừa có những tế bào
có tính tự động cao. Vì bó His và nút nhĩ thất không có ranh giới rõ rang nên
nhiều tác giả gộp chúng lại thành bộ nối nhĩ thất (A – V junction). Xung động
phát ra khoảng 40 – 60 lần/phút.
·
Nhánh phải: đi dưới mặt phải của vách
lien thất, đến tận mỏm tim rồi mới chia nhortaoj thành mạng Purkinje bao khắp
thành thất phải.
·
Nhánh trái: ngắn hơn nhiều, đi ngang sát
mặt trái vách liên thất, vừa đi vừa phát những nhánh nhỏ cho vách này. Sau vai
mm đến chỗ nối 1/3 trên và 1/3 giữa thì chia làm 2 phân nhánh trước-trên và
phân nhánh sau-dưới, rồi từ đó chia nhỏ thành mạng Purkinje cho thất trái.
-
Mạng Purkinje: do các sợi phân chia nhỏ
của 2 nhánh phải và trái đan vào nhau thành một cái lưới bao bọt toàn bộ hai
tâm thất từ lớp dưới nội tâm mạc vào sâu vài mm trong cơ tim, rồi tự kết thúc.
Đây là những tế bào có kích thước lớn nhất ở tim: đường kính lên tới 70-80 µm,
trong khi cơ tim chỉ 10-15µm.
1.3.2
Tế bào co bóp
Tế bào co rút cơ tim phức
tạp hơn nhiều so với cơ vân, bên trong có nhiều nhân, ti thể chiếm đến 40% thể
tích tế bào, bên ngoài được bao bọc bởi một màng ngoài mucopolysaccarid.
Các tế bào nối với nhau
qua 3 hệ thống: tận tận, tận bên, bên bên. Các kiểu nối này được hình thành là
do các tế bào riêng biệt phân nhánh đến tế bào sát bên, tạo thành mạng lưới tế
bào. Kiểu nối bên beencho phép các ion có thể di chuyển từ tế bào này sang tế
bào khác, đồng thời truyền điện thế từ tế bào này qua tế bào khác.
Mỗi một sợi cơ (hay tế
bào cơ) gồm nhiều tơ cơ. Có hai loại tơ cơ, đó là sợi mảnh actin, và sợi mập
myosin. Hai loại này xếp xen kẽ nhau tạo thành các đĩa tối A (anisotropin) và
đĩa sang I (isotropin), giữa đĩa tối có vạch H (phần actin không lồng vào sợi
myosin), giữa đĩa sáng có dải Z, giữa 2
giải Z được gọi là đơn vị co cơ (sarcomere).
Xen kẽ giữa các tơ cơ
là lưới nội cơ tương, lưới này là hệ thống ống do màng té bào luồn vào bên
trong tạo nên. Có hai hệ thống ống ngang (transverse system) và hệ thống ống dọc
(longitudinal system). Các ống ngang T và dọc L tiếp giáp nhau ở sát dải Z của
tế bào cơ (bể tận cùng) tạo nên kiểu cấu trúc chạc ba (triad) và chạc hai
(diad). Tại đây, trong tận cùng ống L có chứa caanxi dưới dạng phức tạp. Khi có
xung động truyền dọc theo ống T tới sẽ làm giải phóng canxi để tham gia vào cơ
chế co cơ.
2.
Các
đặc tính sinh lý của cơ tim
2.1.
Tính hưng phấn
Tim
có khả năng tạo ra điện thế hoạt động dưới ảnh hưởng của xung động phát ra từ hệ
thống tự động hoặc khi bị kích thích bằng điện, cơ học hay hóa chất. Điện thế
hoạt động làm co cơ tim và thể hiện qua điện thế của tim. Tính hưng phấn của
tim có các đặc điểm sau:
-
Tuân theo quy luật ‘tất cả hoặc không’’:
Sức co bóp của tim
không phụ thuộc vào cường độ kích thích. Cường độ kích thích dưới ngưỡng thì
tim không đáp ứng, cường độ kích thích tới ngưỡng thì cơ tim co tối đa và giữ
nguyên ở mức này ngay cả khi kích thích trên ngưỡng.
Ở trạng thái nghỉ, các
tế bào cơ tim cũng như tế bào cơ khác đều ở trạng thái phân cực, nghĩa là có
chênh điện thế giữa trong và ngoài màng tế bào. Điện thế bên trong âm tính so với
bên ngoài màng đo được từ -70 đến -90 mV, có khi lên đến -90 đến -100 mV ở tế
bào dẫn truyền như ở mạng Purkinje, được gọi là điện thế màng lúc nghỉ. Điện thế
này chủ yếu là do sự chênh lệch của 3 ion K+, Na+, Ca2+, trong đó chủ yếu là K+, bên trong gấp khoảng
30 lần so với bên ngoài màng. Các pha của điện thế hoạt động như sau:
-
Pha 0: Khi có kích thích, màng tế bào bị
khử cực, tính thấm của màng thay đổi, tăng tính thấm với ion Na+,
kênh Na+ mở ra nhanh chóng, Na+ ồ ạc vào trong tế bào không
những làm điện thế trong màng hạ đột ngột tới 0 mV mà còn “nảy quá đà” cho tới
+20 mV nữa. Điện thế hoạt động sẽ vẽ một đường gần như thẳng đứng, gọi là pha
khử cực nhanh, tương ứng với sóng R trên ECG.
Tiếp đó đến tái cực gồm
4 pha sau đây:
-
Pha 1: tái cực nhanh sớm. Điện thế trong
màng giảm ít, gần tới 0 mV, do có ion K+ lọt ra ngoài.
-
Pha 2: pha bình nguyên ( hay pha cao
nguyên tái cực). Điện thế thế trong màng vẫn dương, vì Na+ vẫn còn tiếp tục vào
trong tế bào tuy chậm hơn. Ở pha này, màng tế bào chất bắt đầu biến đổi tính thấm
với ion Ca2+, làm cho ion canxi cũng thấm vào một cách thụ động, cân
bằng luồng K+ thoát ra.
-
Pha 3: tái cực nhanh muộn. Lúc này tính
thấm của màng với canxi đã thay đổi hẳn, làm cho K+ thụ động thoát ra ngoài rất
mạnh, đưa điện thế trong màng âm hẳn xuống và ra xa đường cong điện thế hoạt động
tách hẳn đường đẳng điện.
-
Pha 4: phân cực, điện thế trong màng trở
lại âm như lúc nghỉ trước khi bắt đầu pha 0 của điện thế hoạt động. Để lặp lại
trạng thái nội môi hằng định, có một sự vận chuyển chủ động ion Na+ và Ca2+
ra ngoài và K+ vào trong. Để thực hiện điều này, phải cần đến bơm Na+K+ATPase
với sự có mặt của Mg++ sẽ bơm Na+ ra khỏi tế bào và bơm K+ vào lại tế bào. Bơm
thứ 2 được sử dụng ở đây đó là bơm Ca/Na nó đẩy lượng Ca++ đã thấm vào tế bào
ra ngoài, nhưng đổi lại nó sẽ bơm một lượng Na+ vào. Năng lượng được sử dụng
cho bơm hoạt động là ATP.
Ở pha 4 này mới thấy rõ
sự khác nhau giữa các tế bào co bóp, dù ở tâm nhĩ, tâm thất hay cơ xương với
các tế bào tự động ở nút xoang và bộ nối.
Trường hợp tế bào co
bóp thì điện thế màng sẽ giữ nguyên như vậy, đường cong pha 4 cứ nằm ngang, cho
đến khi một kích thích bên ngoài đến khử cực.
Nhưng trường hợp tế bào
tự động lại khác: điện thế trong màng cứ tự động giảm bớt âm, không cần có kích
thích bên ngoài mà dần dần nhích về phía đường đẳng điện: đó là hiện tượng khử
cực chậm tâm trương, do ion Na+ cứ ngấm dần vào trong tế bào. Tuy chậm nhưng điện
thế màng cũng đạt tới ngưỡng để bắt đầu một điện thế hoạt động mới. Vì vậy, người
ta gọi tim có tính tự động, đặc tính này hoàn toàn độc lập với hệ thần kinh, dù
cắt bỏ hết các nhánh thần kinh như trong ghép tim, tim vẫn đập một cách tự động.
Song song với sự biến đổi
điên thế màng là sự biến đổi khả năng hưng phấn của cơ tim sau một kích thích.
Sự biến đổi này diễn ra theo 4 giai đoạn:
·
Giai đoạn trơ tuyệt đối (kéo dài 0.27s):
sau đáp ứng với kích thích trước, cơ tim không tiếp nhận bất kì một kích thích
từ bên ngoài nào hay từ nút xoang tới, tương ứng pha khử cực và 2 pha đầu của
trạng thái tái cực.
·
Giai đoạn trơ tương đối (kéo dài 0,03s):
ứng với lúc tế bào tái cực trở về mức ban đầu. Trong giai đoạn này cơ tim chỉ
có thể đáp ứng với những kích thích mới có cường độ cao hơn ngưỡng. Đáp ứng này
có biên độ thấp hơn bình thường và được gọi là ngoại tâm thu.
·
Giai đoạn hưng vượng (khoảng 0,03s):
trong giai đoạn này, khả năng hưng phấn của tế bào cơ tim tăng hơn mức bình thường,
kích thích dưới ngưỡng cũng có thể gây đáp ứng nhưng không phải bao giờ cũng
có. Giai đoạn này tương ứng với trạng thái giữa phân cực tế báo, lúc tế bào
chưa tái cực hoàn toàn. Do đó ngưỡng khử cực bị giảm và tế bào dễ bị kích
thích.
·
Giai đoạn hồi phục hoàn toàn: sau tái cực,
tế bào trở về phân cực và mức hưng phấn trở về lúc ban đầu. lúc này một đáp ứng
tới ngưỡng sẽ gây được đáp ứng có biên độ bằng đáp ứng lúc bình thường.
2.2.
Tính co bóp
Tim có khả năng co bóp
nhịp nhàng theo chu kì dưới ảnh hưởng của hệ tự động. Ngoài ra các tác nhân
kích thích khác như điện học, hóa học,… cũng làm tim co. Thời gian cơ tim co
kéo dài hơn cơ vân gấp 10 lần.
Khả năng co bóp của cơ
tim thể hiện qua một số hiện tượng sau:
2.2.1.
Hiện
tượng Frank – Starling
Hiện
tượng này còn được gọi là định luật Starling và được phát biểu như sau: trong một
giới hạn nhất định, tim càng bị căng, sức co bóp của tim càng mạnh. Trên trái
tim cô lập, hiện tượng này vẫn xảy ra, nhờ đó mà sự tống máu của tim vẫn có thể
duy trì để phù hợp phần nào với trạng thái căng giãn của tim.
2.2.2.
Tương
quan Laplace
Lực
co bóp của tâm thất có lien quan với áp lực tác động lên mặt trong của tâm thất.
Mối liên quan này được thể hiện trong công thức sau:
T=
Trong đó: T: lực co bóp của cơ tim
P:
áp lực máu trong tâm thất
r:
bán kính khoang thất tâm thu
Như vậy, trong một giới hạn nhất định, lực
co bóp của tim càng mạnh khi áp lực trong tâm thất càng cao, bán kính càng lớn
và độ dày trong tâm thất càng giảm.
2.2.3.
Hiện
tượng bậc thang
Năm 1871, Boiditch phát hiện khả năng hồi
phục của tim sau thòi gian ngừng đập có các đặc điểm sau:
-
Cường độ co bóp của tim tăng dần theo kiểu
bậc thang cho đến khi đạt mức độ nhất định.
-
Sau khi ngừng đập, nhịp tim cũng tăng từ
chậm đến nhanh rồi mới đến mức ổn định.
2.3.
Tính tự động
Tim có các tế bào tự động phát xung đều đặn,
từ đó lan truyền xung động khắp cơ tim gây nên sự co bóp. (xem lại mục các tế
bào phát, dẫn truyền).
2.4.Tính
dẫn truyền
Tính dẫn truyền thể hiện qua sự dẫn truyền
trong hệ tự động.
Từ nút xoang, xung động truyền các mô
xung quanh nút với vận tốc khoảng 0,05 m/s rồi truyền đến cơ nhĩ theo hình nan
hoa với vận tốc 0,8-1 m/s. Tâm nhĩ trái co sau tâm nhĩ phải khoảng 0,02- 0,03s.
Xung động từ tâm nhĩ truyền đến nút nhĩ
thất với tốc độ 0,1-0,2 m/s, mất khoảng 0,012- 0,013s. Xung động được giữ ở nút
nhĩ thất 0,09-0,10s nên thất không hưng phấn ngay.
Tốc độ dẫn truyền trên thân bó His là 2
m/s, ở các nhánh His là 3-4 m/s, ở các mạng Purkinje là 5m/s. Cơ thất dẫn truyền
với tốc độ khoảng 0,3-1 m/s.
Sự biến đổi tốc đọ dẫn truyền như vậy đảm
bảo cho tim vừa hoạt động nhịp nhàng vừa đồng bộ.
3.
Chu
chuyển tim
Chu chuyển tim là tất cả các hoạt động của
tim trong một chu kì, khởi đầu từ một chuyển động nhất định cho tới khi chuyển
động đó xuất hiện lại. Những giai đoạn trong một chu chuyển tim như sau:
3.1. Thì tâm thu:
kéo dài 0,43s bao gồm nhĩ co và thất co
·
Tâm nhĩ thu:
Kéo dài 0,1s trong đó nhĩ phải co trước
nhĩ trái 0,02-0,03s. Áp lực trong tâm nhĩ cao hơn trong tâm thất 2-3 mmHg, làm
mở rộng them an nhĩ thất. Kết quả làm tống nốt ¼ máu còn lại ở nhĩ xuống thất.
Sau thì tâm nhĩ thu, có mốt giai đoạn ngắn
(giai đoạn trung gian): nhĩ thôi co nhưng thất chưa co, sau đó là giai đoạn nhĩ
giãn (0,7s).
·
Tâm thất thu: kéo dài 0,33s bao gồm 2
giai đoạn nhỏ: tăng áp và tống máu
-
Giai đoạn tăng áp: mở đầu giai đoạn này
là giai đoạn tim co bóp không đồng thời (0,05s), làm tăng áp lực trong thất đột
ngột, cao hơn máu tâm nhĩ, làm máu tâm thất phục ngược về nhĩ, đội van nhĩ thấ
làm đóng van, gây ra tiếng tim thứ nhất T1.
Tiếp theo là cơ co đẳng trương (0,03s):
áp lực trong thất tiếp tục tăng cao, trong thất trái là 70-80 mmHg, thất phải
khoảng 10 mmHg. Áp lực này đủ sức mở van bán nguyệt, tống máu tâm thất lên động
mạch.
-
Giai đoạn tống máu (0,25s):
Mở đầu giai đoạn là cơ co đẳng trương, áp
lực trong tâm thất tiếp tục tăng cao, thất trái lên đến 120-150 mmHg, trong thất
phải là 30-40 mmHg. Máu được tống nhanh lên động mạch chủ và động mạch phổi,
giai đoạn tống máu nhanh khoảng 0,12s với 4/5 máu được tống vào động mạch.
Tiếp theo đó, áp lực trong thất giảm xuống
dần, máu được tống vào động mạch chậm hơn, thời gian tống máu chậm khoảng 0,13s
và tống 1/5 lượng máu vào động mạch. Mỗi
lần thất co tống khoảng 70ml máu vào thất (Qs).
3.2. Thì tâm trương
(0,37s): chia làm 3 giai đoạn
-
Giai đoạn tiền tâm trương (0,04s): thất
đã ngừng co nhưng van tổ chim vẫn còn mở. Giai đoạn này mang tính chất quá độ
giữa thời kì tâm thu và tâm trương.
-
Giai đoạn giãn đẳng trương (0,08s): trong
giai đoạn này cơ thất giảm trương lực nhưng không thay đổi chiều dài, áp lực
trong thất thấp hơn trong động mạch. Cộng với xu hướng trở về bình thường của động
mạch làm máu trong động mạch chủ và động mạch phổi đội ngược về, làm đóng van tổ
chim, gây ra tiếng tim thứ hai T2.
Cuối giai đoạn này, thất giãn theo kiểu đẳng
trương, áp lực trong thất giảm thấp hơn nhĩ. Mặt khác, sau khi nhĩ giãn thì máu
từ tĩnh mạch chảy về làm đầy nhĩ, tăng áp lực ở nhĩ, them vào đó là sức hút của
thành ngực trong thì thở vào càng làm cho áp lực thất càng giảm. Kết quả làm
van nhĩ thất mở, máu từ nhĩ xuống thất, khởi đầu làm đầy thất.
-
Giai đoạn đầy máu (0,25s): máu từ nhĩ đổ
xuống thất, đổ đầy thất nhanh 0,09s và tiếp sau đó là đổ đầy thất chậm (0,16s)
Kết thúc giai đoạn đầy máu, ¾ máu từ nhĩ
được đưa xuông thất.Thì tâm trương, tim nghỉ ngơi để hồi phục năng lượng.
bY: T.V. Sáu
Bài viết thuộc quyền sử dụng của các thành viên MasCar - Vui lòng không repost dưới mọi hình thức (:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét